Thu hồi và lưu trữ carbon: mặt trái và mặt trái

Thu hồi và lưu trữ carbon: mặt trái và mặt trái

    Rất có thể bạn đã nghe nói về thu hồi và lưu trữ carbon, một phương pháp giảm lượng khí thải carbon dioxide bằng cách sử dụng công nghệ hiện có có thể được triển khai trên quy mô lớn. Như Cố vấn cấp cao của ANGEA, Neil Theobald viết trong ấn bản tháng 4 của Nhật ký năng lượng, với chính sách và môi trường pháp lý phù hợp, đây sẽ là một phần quan trọng của quá trình chuyển đổi năng lượng – ở châu Á và xa hơn.  

    Thu hồi và lưu trữ carbon (CCS) bao gồm việc thu giữ carbon dioxide (CO2) từ các quy trình công nghiệp, vận chuyển nó đến nơi lưu trữ và sau đó bơm vào các hệ tầng xốp dưới lòng đất để lưu trữ lâu dài.

    Công nghệ cho ba giai đoạn này tương đối hoàn thiện. Việc tách CO2 khỏi khí tự nhiên hoặc thu hồi nó từ khí thải đốt đã được tiến hành trong nhiều năm, cũng như việc truyền tải bằng đường ống. Việc bơm CO2 vào các khối đá dưới lòng đất cũng là một kỹ thuật đã được áp dụng rộng rãi để tăng cường thu hồi dầu.

    Điều này có nghĩa là CCS có lợi thế mà một số phương án chuyển đổi năng lượng khác không có – không cần có sự phát triển công nghệ vượt trội để triển khai CCS trên quy mô lớn.

    Thách thức của quá trình chuyển đổi năng lượng là tất cả các công nghệ có thể đóng góp đều cần được xem xét. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và Hội đồng Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) của Liên hợp quốc đều coi CCS là một thành phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi tổng thể của hệ thống năng lượng nhằm giảm lượng khí thải.

    Rõ ràng là việc hầu như chỉ dựa vào năng lượng tái tạo để sản xuất điện sẽ không dẫn đến kết quả về chi phí hoặc độ tin cậy có thể chấp nhận được, có nghĩa là khí đốt tự nhiên sẽ nằm trong hỗn hợp năng lượng trong tương lai gần. Trong khi đó, một số quy trình công nghiệp sản sinh ra CO2 lại rất khó khử cacbon. Ví dụ như thép và xi măng trong đó hóa học cơ bản có nghĩa là CO2 là một phần không thể thiếu của quá trình, không chỉ là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất năng lượng. Mặc dù có sẵn các lựa chọn thay thế cho thép nhưng việc sản xuất xi măng rất khó thay đổi.

    CCS thường bị phản đối trên cơ sở rằng nó sẽ kéo dài việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, tuy nhiên điều này đã hiểu sai vấn đề. Thực tế là việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch sẽ kéo dài vì chúng rất quan trọng đối với hoạt động của hệ thống năng lượng toàn cầu và nền kinh tế rộng lớn hơn. CCS là một cách để giảm tác động của nhiên liệu hóa thạch sắp được tiêu thụ.

    Những phản đối khác bao gồm công nghệ không hoạt động, có nguy cơ rò rỉ CO2 và quá tốn kém. Giống như vấn đề hạt nhân, những phản đối này dường như thường xuất phát từ quan điểm ý thức hệ hơn là bất kỳ phân tích nào.

    Một trong những cơ sở lắp đặt CCS lớn nhất trên thế giới là tại dự án Gorgon LNG ở Úc, nơi dòng CO2 đậm đặc được tách ra trước khi khí tự nhiên được hóa lỏng. Về mặt lịch sử, CO2 được thải vào khí quyển, tuy nhiên tại Gorgon, nó bị nén và bơm trở lại vào khối đá ở độ sâu hơn 2 km dưới bề mặt.

    Gorgon đôi khi được coi là một ví dụ về việc CCS không hoạt động vì tỷ lệ tiêm ít hơn kế hoạch trong giai đoạn đầu. Điều này không phải do bất kỳ lỗi cơ bản nào của công nghệ CCS và dự kiến ​​sau một số công việc khắc phục, việc tiêm sẽ đạt được mục tiêu. Những loại vấn đề ban đầu với quy mô tăng đáng kể này là phổ biến và không có nghĩa là cách tiếp cận này thiếu hiệu lực.

    Ở châu Á-Thái Bình Dương, có những thách thức đối với việc triển khai CCS ngoài những thách thức ở các khu vực có mối liên kết chặt chẽ hơn như Bắc Mỹ và Châu Âu. Như thường lệ, địa lý rất quan trọng và phần lớn CO2 được thu giữ sẽ là nơi mà địa chất đối với CCS không hữu ích, trong khi nhiều địa điểm cô lập tiềm năng lại nằm ở các nước kém phát triển hơn. Điều này tạo ra cơ hội phát triển thương mại quốc tế và tạo ra các cơ hội kinh tế mới bằng cách vận chuyển CO2 qua biên giới quốc tế, cho dù bằng đường ống hay tàu thủy.

    Để hỗ trợ điều này, cần phải thực hiện nhiều việc liên quan đến chính sách và quy định và mặc dù công việc này sẽ có phạm vi rộng nhưng vẫn có thể đạt được. Một ví dụ là sáng kiến ​​của Hiệp hội Năng lượng và Khí tự nhiên Châu Á (ANGEA) được công bố vào cuối năm 2023 nhằm xây dựng lộ trình quản lý chứng nhận carbon xuyên biên giới ở Châu Á Thái Bình Dương. Điều này sẽ tập hợp chính phủ, ngành công nghiệp và các bên liên quan khác để vạch ra cách đạt được các tiêu chuẩn và chứng nhận nhất quán cho việc vận chuyển CO2 xuyên biên giới quốc tế. Dự án này sẽ được công bố vào cuối năm 2024 và mặc dù loại công việc nền tảng này không mấy hấp dẫn nhưng nó rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành.

    Quy mô tăng CCS cần thiết để có tác động có ý nghĩa đến quá trình chuyển đổi năng lượng là rất khó khăn. Chìa khóa thành công sẽ là giảm chi phí đơn vị để tăng khả năng cạnh tranh với các lựa chọn thay thế, sự chắc chắn về chính sách dài hạn và môi trường pháp lý hỗ trợ.

    Neil Theobald có hơn 40 năm kinh nghiệm trong ngành dầu khí, trong đó có 17 năm làm việc tại Chevron, nơi ông giữ chức Phó Chủ tịch, Global LNG, Gas Supply & Trading. Ông là Cố vấn cấp cao của ANGEA kể từ năm 2021.

    ANGEA  là hiệp hội ngành đại diện cho các nhà sản xuất LNG và khí đốt tự nhiên, người mua, nhà cung cấp và công ty năng lượng ở APAC. Có trụ sở tại Singapore, công ty hợp tác với các chính phủ và xã hội trong khu vực để cung cấp các giải pháp năng lượng an toàn và đáng tin cậy nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, an ninh năng lượng, xã hội và môi trường quốc gia cũng như đáp ứng các mục tiêu về khí hậu toàn cầu.

    Mời các đối tác xem hoạt động của Công ty TNHH Pacific Group.
    FanPage: https://www.facebook.com/Pacific-Group
    YouTube: https://www.youtube.com/@PacificGroupCoLt

    Zalo
    Hotline