Hàng loạt địa phương đề xuất bổ sung điện gió và khí đốt vào PDPVIII tại Việt Nam

Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ninh và Thái Bình đề xuất bổ sung hơn 91.800 MW vào PDPVIII, phần lớn là điện gió, điện gió ngoài khơi.
Tờ trình xem xét bổ sung nguồn điện vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch phát triển điện lực VIII) vừa được các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ninh, Thái Bình gửi Chính phủ và Bộ. của ngành Công thương.
Theo đó, tỉnh Bình Thuận đề xuất bổ sung 22.200 MW điện gió ngoài khơi, gồm các dự án như: Dự án Thăng Long Wind ngoài khơi với công suất lắp máy là 3.400 MW; La Gan 3.500 MW, Vĩnh Phong 1.000 MW, Tuy Phong 4.600 MW, Bình Thuận 5.000 MW.
Về lĩnh vực điện khí, tỉnh này đề xuất bổ sung dự án điện LNG mũi Kê Gà công suất 3.200 MW. Ngoài ra, tỉnh cũng đề xuất đưa vào quy hoạch phát triển điện lực VIII ba dự án điện gió trên bờ công suất 142 MW và một dự án thủy điện tích năng 600 MW.
Bình Thuận cũng đề nghị Bộ Công Thương tiếp tục thẩm định các dự án nằm trong tổng số 62 dự án điện mặt trời vào quy hoạch điện mặt trời quốc gia, với công suất còn lại khoảng 2.600 MW.
Các nguồn điện tỉnh Ninh Thuận đề xuất đưa vào QHĐKIII khoảng 42.595 MW, trong đó điện gió trên bờ gần 1.888 MW; điện gió gần bờ là 4.380 MW; 21.000 MW gió ngoài khơi bao gồm. Tỉnh cũng đề xuất chuyển đổi 4.600 MW điện hạt nhân trước đây sang LNG; còn lại là thủy điện tích năng (3.600 MW), điện mặt trời hơn 5.189 MW và thủy điện nhỏ 438 MW.
Tỉnh này cũng đề nghị Bộ Công Thương thẩm định phương án đấu nối đối với các dự án đã được phê duyệt bổ sung quy hoạch trước đó nhưng chưa được phê duyệt lưới điện.
Tại Thái Bình, tỉnh này đề xuất đưa 8.700 MW điện gió vào quy hoạch phát triển điện lực VIII. Các dự án này bao gồm dự án điện gió 5.000 MW do Công ty TNHH Xuân Thiện Ninh Bình đề xuất; dự án điện gió ngoài khơi do Công ty cổ phần Tập đoàn T&T và Tập đoàn Orsted (Đan Mạch) đề xuất với công suất 3.000 MW và dự án điện gió 700 MW do Tập đoàn Pondera (Hà Lan) đề xuất.
Ngoài điện gió, địa phương này cũng đề nghị Bộ Công Thương thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung QHĐ VIII dự án Trung tâm Điện lực LNG Thái Bình, công suất khoảng 4.500. MW mỗi dự án, 20 MW điện từ chất thải thành năng lượng.
Và Quảng Ninh muốn đưa vào quy hoạch phát triển điện lực VIII khoảng 5.000 MW điện gió, trong đó điện gió ngoài khơi 3.000 MW; 2.000 MW điện gió trên bờ. Riêng từ nay đến năm 2030, tỉnh này đề xuất đưa 2.500 MW (điện gió trên bờ 2.000 MW và điện gió ngoài khơi 500 MW) vào quy hoạch.
Tỉnh cũng kiến nghị Bộ Công Thương xem xét, trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh tiến độ đầu tư Nhà máy điện khí LNG 1.500 MW giai đoạn 2 đi vào vận hành từ năm 2026 đến năm 2027, đồng bộ với dự án điện khí giai đoạn 1.
Với hai dự án nhiệt điện đã nằm trong quy hoạch chung điều chỉnh VII, tổng công suất 1.600 MW nhưng chưa triển khai, tỉnh Quảng Ninh đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét chuyển sang điện khí.
Quy hoạch phát triển điện lực VIII đang được Bộ Công Thương tiếp tục rà soát, hoàn thiện theo yêu cầu của Chính phủ theo hướng đảm bảo cân đối cung cầu cao nhất trong khu vực (Bắc, Trung, Nam); kết hợp sử dụng hợp lý, tiết kiệm lưới điện truyền tải hiện có và đang đầu tư xây dựng, đảm bảo hiệu quả chung cao nhất.
Với cam kết của Việt Nam tại Hội nghị Cấp cao về biến đổi khí hậu (COP 26), Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương nghiên cứu, đề xuất phương án xử lý và cập nhật vào phương án này. Ngoài ra, tiêu chí xác định các dự án trọng điểm, dự án ưu tiên trong QHĐ VIII cũng cần được làm rõ.
Theo dự thảo vào tháng 10, Quy hoạch phát triển điện lực VIII ưu tiên khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện. Dự thảo đề xuất phương án dừng rà soát quy hoạch một số dự án nhiệt điện than đã được phê duyệt, nhưng không được địa phương ủng hộ hoặc không đủ điều kiện phát triển.
Ước tính mỗi năm Việt Nam cần 10-11,5 tỷ USD cho đầu tư nguồn và lưới điện trong giai đoạn 2021 - 2030. Mười năm sau, lượng vốn cần cho đầu tư nguồn và lưới điện tăng lên 12-15,2 tỷ USD. mỗi năm.

