Doanh nghiệp ngành gỗ hy vọng viên gỗ được Nhật Bản công nhận đạt chứng nhận PEFC/VFSC CS
(VAN) Nhật Bản là một trong hai thị trường lớn nhất của viên nén gỗ Việt Nam. Xuất khẩu viên nén gỗ sang thị trường này có tiềm năng đáng kể trong những năm tới nếu có thêm diện tích được cấp chứng chỉ rừng bền vững.

Việt Nam là nước sản xuất viên gỗ lớn thứ hai trên thế giới. Ảnh: Sơn Trang.
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, Việt Nam đã trở thành nước sản xuất viên nén gỗ lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Phần lớn viên gỗ sản xuất tại Việt Nam đều nhằm mục đích xuất khẩu.
Hàn Quốc và Nhật Bản là hai thị trường nhập khẩu viên nén gỗ lớn nhất từ Việt Nam, chủ yếu sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho phát điện. Khối lượng và giá trị xuất khẩu sang 2 nước này liên tục chiếm gần 100% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang tất cả các thị trường từ năm 2019 đến nay. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu sang 2 thị trường này có xu hướng trái ngược nhau trong 6 tháng đầu năm 2023.
6 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu viên gỗ sang Nhật Bản đạt trên 1,16 triệu tấn, trị giá trên 195 triệu USD, tăng 5,65% về lượng và tăng 28,88% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Trong cùng kỳ, Việt Nam xuất hơn 840 nghìn tấn viên nén gỗ sang Hàn Quốc, trị giá gần 116 triệu USD, giảm hơn 33% về lượng và giảm gần 43% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Mặc dù giá nhập khẩu của cả hai thị trường đều giảm đáng kể trong năm 2023 so với cuối năm 2022 nhưng mức giảm tại thị trường Hàn Quốc lớn hơn nhiều so với Nhật Bản do nhu cầu viên nén gỗ tại thị trường này giảm đáng kể.
Tính đến tháng 6/2023, giá xuất khẩu viên nén gỗ sang Hàn Quốc đạt xấp xỉ 105 USD/tấn, giảm 43% so với mức giá đỉnh điểm 185 USD/tấn vào tháng 12/2022. Ngược lại, giá xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn ở mức gần 153 USD. USD/tấn, giảm chưa đến 18% so với mức giá cao kỷ lục 6 tháng trước đó.
Theo Tiến sĩ Tô Xuân Phúc từ Forest Trends, thị trường Nhật Bản ổn định hơn so với Hàn Quốc, với các đơn hàng dài hạn (hợp đồng mua bán thường kéo dài 10 – 15 năm) hiện được xuất khẩu với mức giá dao động từ khoảng 145 USD đến 165 USD. mỗi tấn (giá FOB).
Ngoài các hợp đồng dài hạn, một số công ty Nhật Bản còn ký kết các hợp đồng ngắn hạn với một số nhà cung cấp Việt Nam. Giá hợp đồng ngắn hạn thường thấp hơn giá hợp đồng dài hạn (hiện khoảng 125 USD/tấn, giá FOB) nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tương đương với sản phẩm sản xuất theo hợp đồng dài hạn.
Nhu cầu về viên nén gỗ tại Nhật Bản được dự báo sẽ tăng đáng kể trong những năm tới. Thông tin từ một số doanh nghiệp cho biết, Nhật Bản hiện sử dụng khoảng 8 triệu tấn viên nén gỗ mỗi năm, trong đó 40-50% là vỏ hạt cọ và còn lại (50-60%) là viên nén gỗ. Dự kiến đến năm 2030, nhu cầu về viên nén gỗ ở Nhật Bản sẽ tăng lên 20 triệu tấn, trong đó viên nén gỗ chiếm khoảng 13-15 triệu tấn (còn lại là vỏ hạt cọ).
Vì vậy, có thể nhận thấy thị trường viên nén gỗ Nhật Bản có tính bền vững cao hơn so với thị trường Hàn Quốc. Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp có nguyên liệu đầu vào ổn định và có chứng nhận bền vững cũng như cơ sở sản xuất quy mô lớn, được quản lý tốt.
Quỹ đạo phát triển bền vững khác nhau của thị trường viên gỗ Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy cơ hội mở ra quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Những người cam kết thực hành thân thiện với môi trường, sở hữu vật liệu bền vững được chứng nhận và được trang bị năng lực sản xuất hiệu quả có thể tận dụng cơ hội này một cách chiến lược để khai thác nhu cầu ngày càng tăng về viên gỗ bền vững, đặc biệt là ở các thị trường có điều kiện tiên quyết nghiêm ngặt về sinh thái. Khi ý thức về môi trường toàn cầu tiếp tục phát triển, những doanh nghiệp như vậy có vị thế tốt để tạo ra tác động đáng kể đồng thời đóng góp cho một tương lai bền vững hơn.

Viên nén được sản xuất từ gỗ được chứng nhận FSC. Ảnh: Sơn Trang. Nếu viên nén gỗ xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu được làm từ phế liệu gỗ của ngành chế biến gỗ như mùn cưa, dăm gỗ, phế liệu gỗ dư thừa thì viên nén gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản cần có nguồn gỗ trồng trong nước có chứng nhận FSC. Loại nguyên liệu này chỉ có ở những vùng có rừng trồng rộng ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Trung và miền Bắc.
Ngoài các lĩnh vực có chứng chỉ FSC, Việt Nam đã thiết lập chương trình chứng chỉ rừng quốc gia (VFCS) chính thức đi vào hoạt động, cung cấp chứng chỉ VCS/PEFC-FM (quản lý rừng) và VCS/PEFC-CoC (chuỗi truy xuất nguồn gốc sản phẩm). Tiêu chuẩn này được đánh giá là phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. mặc dù nó vẫn chưa được thị trường nhập khẩu thừa nhận, kể cả sự chấp thuận của Nhật Bản. Vì vậy, các doanh nghiệp ngành gỗ đang kêu gọi các cơ quan quản lý Việt Nam thúc đẩy việc Nhật Bản công nhận viên nén gỗ sản xuất từ gỗ có chứng nhận PFFC/VFSC CS.

