Thị trường pin lưu trữ lưới điện toàn cầu sẽ tăng gần gấp đôi lên 624 GWh vào năm 2033

Thị trường pin lưu trữ lưới điện toàn cầu sẽ tăng gần gấp đôi lên 624 GWh vào năm 2033

    Thị trường pin lưu trữ lưới điện toàn cầu sẽ tăng gần gấp đôi lên 624 GWh vào năm 2033
    2025/07/31 13:24

    (出所:矢野経済研究所)

    Chuyển đổi và Dự báo Quy mô Thị trường Toàn cầu của Pin Lưu trữ Năng lượng Cố định (ESS) Liên quan đến Hệ thống Điện
    (Nguồn: Viện nghiên cứu Yano)

    Dự báo sản lượng xuất xưởng pin lưu trữ năng lượng công suất lớn (ESS) tại Nhật Bản (MWh)

    • 2022: ~100.000 MWh

    • 2023: ~150.000 MWh

    • 2024: 254.498 MWh

    • 2025 (Ước tính): 331.403 MWh

    • 2026 (Dự báo): ~360.000 MWh

    • 2027 (Dự báo): ~390.000 MWh

    • 2028 (Dự báo): ~410.000 MWh

    • 2029 (Dự báo): ~450.000 MWh

    • 2030 (Dự báo): ~470.000 MWh

    • 2031 (Dự báo): ~500.000 MWh

    • 2032 (Dự báo): ~550.000 MWh

    • 2033 (Dự báo): 624.253 MWh

    Ghi chú:

    1. Dựa trên sản lượng xuất xưởng (MWh) của các nhà sản xuất.

    2. Năm 2025 là giá trị ước tính; từ 2026 trở đi là số liệu dự báo.

    3. Bao gồm ESS dùng để ổn định hệ thống (nhà máy điện, trạm biến áp, cung cấp năng lượng tái tạo, và hệ thống lưới điện nhỏ - microgrid).

     Viện Nghiên cứu Yano (Nakano-ku, Tokyo) đã công bố kết quả khảo sát thị trường toàn cầu về hệ thống lưu trữ năng lượng cố định (ESS) liên quan đến lưới điện, bao gồm cả pin liên quan đến lưới điện, vào ngày 28 tháng 7. Quy mô thị trường ước tính đạt 254.498 MWh (254.498 GWh) vào năm 2024, dựa trên công suất vận chuyển của các nhà sản xuất. Thị trường ESS liên quan đến lưới điện đang phát triển nhanh chóng, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Trung Quốc và Châu Âu, với ba khu vực này chiếm hơn 80% công suất vận chuyển.

     Báo cáo cho rằng việc mở rộng xuất khẩu ESS là nhờ hệ thống hỗ trợ được tăng cường cho các cơ sở sản xuất điện năng lượng tái tạo và các cơ sở lắp đặt ESS tại các quốc gia lớn, cũng như lợi nhuận từ việc bán điện được cải thiện nhờ chi phí sản xuất điện năng lượng tái tạo giảm. Xuất khẩu ESS dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong năm 2025, đạt 331.403 MWh (331.403 GWh), tăng 30,2% so với năm trước.

     Xu hướng mở rộng việc triển khai các cơ sở sản xuất điện năng lượng tái tạo tại các quốc gia trên thế giới nhằm đạt được mục tiêu trung hòa carbon dự kiến sẽ còn tăng tốc hơn nữa trong tương lai. Do đó, nhu cầu giải quyết biến động sản lượng điện từ năng lượng tái tạo và sử dụng hiệu quả nguồn điện dư thừa sẽ ngày càng lớn, và thị trường ESS liên quan đến lưới điện toàn cầu dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định.

     Các nước lớn đang tăng cường các biện pháp hỗ trợ tài chính, chẳng hạn như trợ cấp và ưu đãi thuế, để thúc đẩy việc áp dụng ESS. Các nhà sản xuất liên quan đến ESS cũng đang cải thiện hiệu suất và giảm chi phí sản xuất bằng cách cải thiện tính chất vật liệu và tối ưu hóa phương pháp thiết kế. Những tiến bộ kinh tế và công nghệ này dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng lợi ích của việc áp dụng ESS. Đến năm 2033, sản lượng điện ESS dự kiến sẽ đạt 624.253 MWh (624.253 GWh), gấp đôi mức năm 2025.

     Sự phát triển của các công nghệ mới đang tiến triển nhanh chóng trong lĩnh vực pin lưu trữ. Cho đến khoảng năm 2020, các vật liệu tam phân như NCM (niken-coban-mangan) và NCA (niken-coban-nhôm) đã được sử dụng rộng rãi làm vật liệu catốt cho pin lithium-ion. Tuy nhiên, kể từ năm 2021, các nhà sản xuất pin Trung Quốc đã nhanh chóng tăng sản lượng pin lithium-ion sử dụng LFP (lithium iron phosphate), vượt qua các vật liệu tam phân. Xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục đến năm 2025, với LFP dự kiến chiếm hơn 90% vật liệu catốt được sử dụng trong pin lithium-ion.

     Ngoài ra, việc phát triển các hệ thống ba thành phần không coban (NMX) và lithium mangan sắt phosphate (LMFP) mật độ năng lượng cao cho thành phần vật liệu catốt đang được tiến hành. Các loại pin vật liệu mới đang thu hút sự chú ý bao gồm pin thể rắn, có độ an toàn và mật độ năng lượng cao hơn pin lithium-ion, và pin natri-ion (NiB), có chi phí nguyên liệu thô thấp hơn và tác động môi trường thấp hơn.

    Zalo
    Hotline