Malaysia và Singapore thu hút phần lớn khoản đầu tư xanh trị giá 2,4 tỷ đô la Mỹ tăng ở Đông Nam Á vào năm 2024
Trên toàn khu vực, các khoản đầu tư tư nhân vào các dự án xanh đã tăng đáng kể 43 phần trăm theo năm, dẫn đầu là các thỏa thuận năng lượng mặt trời. Nhưng tiến độ không đồng đều và Đông Nam Á vẫn đang phải vật lộn để thu hẹp khoảng cách tài trợ hàng năm là 50 tỷ đô la Mỹ vào năm 2030.
Một hệ thống quang điện lắp đặt trên mái nhà ở Penang, Malaysia. Quốc gia này đã chứng kiến khoản đầu tư năng lượng mặt trời tăng gấp bốn lần thông qua các hệ thống năng lượng mặt trời tại các khu thương mại và dân cư. Ảnh: Blueleaf Energy
Theo một nghiên cứu được công bố vào thứ Ba bởi công ty tư vấn Bain & Company và nhà đầu tư nhà nước Temasek của Singapore, Malaysia và Singapore đã cùng nhau thu hút hơn 60 phần trăm trong số 8 tỷ đô la Mỹ đầu tư xanh vào Đông Nam Á vào năm 2024.
Chi phí này tăng 43 phần trăm so với mức 5,6 tỷ đô la Mỹ của năm 2023, do sự gia tăng đầu tư vào các dự án năng lượng mặt trời cũng như chi tiêu cho các trung tâm dữ liệu sử dụng năng lượng tái tạo.
Malaysia và Singapore đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong các khoản đầu tư xanh và đang trên đà đạt được các mục tiêu quốc gia, nhưng tiến độ lại không đồng đều ở các khu vực khác trong khu vực, các nhà nghiên cứu của báo cáo Kinh tế xanh Đông Nam Á thường niên cho biết.
Theo dữ liệu mới nhất, mặc dù nguồn tài chính năng lượng mặt trời và gió của Philippines đã mở rộng và Việt Nam chứng kiến ít nhất 95 phần trăm tất cả các khoản đầu tư xanh của mình hướng đến năng lượng tái tạo, nhưng cả hai quốc gia Đông Nam Á này đều tụt hậu về cách các mục tiêu khí hậu quốc gia của họ thúc đẩy các chính sách thân thiện với đầu tư bền vững. Cả hai quốc gia, cũng như Indonesia, đều chứng kiến tổng số tiền đầu tư xanh tư nhân mà họ thu hút được đều giảm vào năm 2024.
Philippines là quốc gia duy nhất trong khu vực vẫn chưa công bố mục tiêu phát thải ròng bằng 0, mặc dù đã cam kết với Liên hợp quốc rằng họ sẽ giảm 75% khí nhà kính có hại vào năm 2030. Việt Nam cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, thông qua mục tiêu giảm phát thải có điều kiện là 27% vào năm 2030.
Malaysia và Singapore chiếm phần lớn trong số 8 tỷ đô la Mỹ đầu tư thân thiện với khí hậu tư nhân hướng tới các mục tiêu phi cacbon hóa vào năm 2024. Ảnh: Báo cáo Kinh tế xanh Đông Nam Á 2025
“Trong thập kỷ qua, khu vực này đã thể hiện tham vọng ngày càng tăng đối với phát triển bền vững. Tuy nhiên, tiến độ không đồng đều và chỉ còn năm năm nữa là đạt được các mục tiêu khí hậu quan trọng vào năm 2030, Đông Nam Á vẫn chưa đi đúng hướng để thực hiện các cam kết về khí hậu của mình”, Dale Hardcastle, đối tác của Asia cho biết Pacific, Bain & Company.
“Cơ hội để thay đổi quỹ đạo này đang thu hẹp nhanh chóng, nhấn mạnh tính cấp thiết của hành động táo bạo, phối hợp tại thời điểm chuyển đổi này”.
Malaysia đã bảo đảm khoản tài trợ 900 triệu đô la Mỹ vào năm ngoái cho hoạt động ban đầu của một trung tâm dữ liệu 98 megawatt (MW) tại tiểu bang Johor ở phía nam. Johor đã đưa ra các hướng dẫn để khuyến khích các trung tâm dữ liệu trong tương lai sử dụng năng lượng tái tạo; họ cũng đã từ chối các đơn đăng ký không đáp ứng các tiêu chuẩn xanh.
Quốc gia dẫn đầu chương trình chuyển đổi năng lượng của khối này cũng chứng kiến khoản đầu tư vào năng lượng mặt trời tăng gấp bốn lần thông qua các hệ thống năng lượng mặt trời. Chương trình này khuyến khích chủ sở hữu bất động sản đầu tư vào các hệ thống quang điện trên mái nhà và bù đắp hóa đơn tiền điện của họ và có khả năng kiếm được doanh thu từ việc tạo ra năng lượng dư thừa.
Các thỏa thuận tư nhân trong nước về hydro xanh cũng đạt tổng cộng 400 triệu đô la Mỹ, tăng từ mức 0 vào năm 2023. Dự án cụ thể ở Perak tập trung vào sản xuất hydro bằng công nghệ năng lượng mặt trời.
Singapore đã thu hút được khoản tài trợ mới khoảng 320 triệu đô la Mỹ cho một nhà sản xuất tấm pin mặt trời, cùng với các khoản đầu tư vào nhà máy thay thế nhiên liệu, hydro và chuyển đổi chất thải thành năng lượng.
Các tác giả báo cáo nhận thấy rằng Indonesia đã trải qua sự chậm lại trong các khoản đầu tư xanh do thiếu đầu tư vào các biện pháp thay thế nhiên liệu, thường bao gồm việc thay thế nhiên liệu bẩn hơn như xăng hoặc dầu diesel bằng một loại nhiên liệu thay thế có lượng khí thải thấp hơn như khí đốt tự nhiên.
Indonesia, một trong những quốc gia phát thải lớn nhất thế giới, đã tụt hậu trong việc đáp ứng các mục tiêu về khí hậu vào năm ngoái vì không thể nhận được các điều khoản tài trợ thuận lợi từ các nhà tài chính nước ngoài để loại bỏ dần điện than và không có bất kỳ khoản đầu tư năng lượng sạch mới nào, theo báo cáo. Nhưng nó đã phục hồi trước khi kết thúc năm 2024 bằng cách thu hút vốn cho một nhà máy điện gió 5GW và một nhà máy điện mặt trời trên mái nhà 5GW khác sẽ hoàn thành vào năm 2030.
Philippines là một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực về thu hút đầu tư xanh vào năm 2023 nhưng năm ngoái, vị thế của quốc gia này đã giảm mạnh khi nguồn tài chính quản lý chất thải mà họ thu được giảm từ 600 triệu đô la Mỹ xuống còn 0 vào năm 2024.
Năm ngoái, các khoản đầu tư xanh tư nhân vào năng lượng mặt trời đã tăng gấp đôi, trong khi đầu tư vào cải thiện quản lý chất thải tăng 60 phần trăm so với năm 2023.
Mở rộng tài chính hỗn hợp
Trong khi các khoản đầu tư vào khí hậu tăng vào năm 2024, Đông Nam Á có khoảng cách đầu tư hàng năm là 50 tỷ đô la Mỹ vào năm 2030 để đạt được các mục tiêu phi carbon, báo cáo lưu ý.
Tài chính hỗn hợp, dùng để chỉ các quỹ đầu tư kết hợp vốn công hoặc từ thiện với vốn tư nhân đang nổi lên như một trong những giải pháp để thu hẹp khoảng cách này, nhưng vẫn bị hạn chế bởi các giao dịch có quy mô nhỏ, thủ tục hành chính rườm rà và sự không phù hợp của nhà đầu tư, nghiên cứu cho thấy.
Các tác giả báo cáo đề xuất rằng tài chính hỗn hợp có thể được mở rộng thông qua việc phát triển chính sách quốc gia như nhiệm vụ nhiên liệu hàng không bền vững (SAF) tại Indonesia hoặc thông báo của Singapore về ý định nhập khẩu 6GW điện các-bon thấp vào năm 2035. Trước đó, Indonesia đã tuyên bố rằng SAF cần được sử dụng cho tất cả các chuyến bay quốc tế khởi hành từ nước này từ năm 2027.
Các tác giả cho biết thêm rằng các giao dịch phức tạp và các cuộc đàm phán kéo dài do sự tham gia của nhiều bên liên quan có thể được ngăn ngừa nếu các tiêu chuẩn được hài hòa hóa. Ví dụ, Phân loại ASEAN về Tài chính bền vững đã và đang đạt được nhiều tiến bộ vì nó đóng vai trò là khuôn khổ để huy động vốn và ưu tiên các dự án có tác động cao phù hợp với các tiêu chuẩn toàn cầu.
Khoảng cách giữa các nhà đầu tư và thực tế địa phương cũng cần được giải quyết. Các tác giả cho biết các nhà đầu tư thương mại và bên cho vay cần có sự chắc chắn về mặt pháp lý và khả năng thanh toán, trong khi các bên cho vay ưu đãi cần có thêm báo cáo như báo cáo tác động, làm tăng thêm chi phí cho các dự án.