Nỗ lực đẩy mạnh lĩnh vực năng lượng tái tạo của Philippines là một bước đi đúng hướng. Tuy nhiên, nó cần đầu tư và phát triển năng lượng tái tạo nhiều hơn nữa. Chính phủ cũng phải thực hiện cam kết bằng 0 ròng vào năm 2050 để bắt kịp các nước láng giềng trong khu vực.
Chính phủ gần đây đã cho phép toàn bộ quyền sở hữu nước ngoài trong các dự án năng lượng tái tạo của Philippines . Trước đây, các công ty nước ngoài chỉ có thể sở hữu tối đa 40% cổ phần của một dự án năng lượng, phần còn lại do một công ty hoặc công dân Philippines nắm giữ.
Các nhà đầu tư nước ngoài hiện có thể nắm giữ 100% vốn cổ phần trong việc thăm dò, phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo năng lượng mặt trời, gió, thủy điện và đại dương hoặc thủy triều. Các công ty nước ngoài đã hoạt động trong một liên doanh với một đối tác Philippines giờ đây có thể nắm cổ phần kiểm soát trong các liên doanh đó.
Đông Nam Á cần quỹ xanh
Sự thay đổi chính sách đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo ở Philippines phù hợp với  lời kêu gọi quốc tế  đối với các quốc gia Đông Nam Á tăng cường vốn nước ngoài để phát triển các lĩnh vực năng lượng tái tạo tương ứng. Đổi lại, điều này sẽ tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng và giảm lượng khí thải carbon tổng thể.
Điều này cũng xảy ra khi chính phủ cố gắng tránh xa sự phụ thuộc quá mức vào nhiên liệu hóa thạch được sử dụng để phát điện.
Tỷ lệ phần trăm năng lượng tái tạo của Philippines
Than chiếm khoảng 57,5% tổng sản lượng điện được tạo ra ở Philippines. Khí tự nhiên chiếm 17,7%. Trong khi đó, các nguồn năng lượng tái tạo chiếm 23,4% hỗn hợp năng lượng. Tuy nhiên, trong số năng lượng tái tạo được sử dụng, một phần lớn là thủy điện.
Quyền lợi thay đổi chính sách
Philippines đã cam kết năng lượng tái tạo chiếm  35% trong cơ cấu sản xuất điện của nước này vào năm 2030  và 50% vào năm 2040. Tổng thống Philippines Ferdinand R. Marcos Jr. tuyên bố rằng chính quyền của ông sẽ tập trung phát triển năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng.
Năm ngoái, chính phủ Philippines đã cố gắng làm cho việc tham gia vào lĩnh vực năng lượng tái tạo trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp trong nước. Những thay đổi cũng sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài.
Các lợi ích bao gồm một khung khuyến khích tài chính và phi tài chính. Trong số này có miễn thuế thu nhập, miễn thuế nhập khẩu thiết bị và xếp hạng miễn thuế GTGT, cũng như tín dụng thuế đối với thiết bị vốn trong nước, miễn thuế đối với tín dụng carbon, ưu tiên kết nối với lưới điện và Chương trình Lựa chọn Năng lượng Xanh ( GEOP).
Cải thiện điện khí hóa nông thôn
Philippines cũng có một số ưu đãi hấp dẫn nhất của chính phủ đối với điện khí hóa nông thôn – ít nhất là trên giấy tờ. Những điều này sẽ giúp đất nước hoàn thành mục tiêu điện khí hóa toàn bộ nông thôn. Quốc gia này đã tự hào về tỷ lệ tiếp cận điện năng khoảng 95% , cho thấy tỷ lệ điện khí hóa chung ở khu vực Đông Nam Á .
Các ngân hàng Philippine không thích mạo hiểm
Dù hứa hẹn như chính sách năng lượng tái tạo mới của Philippines, vẫn còn những trở ngại lớn. Thứ nhất, ngành ngân hàng của đất nước vẫn không thân thiện với việc cấp vốn cho các dự án năng lượng tái tạo của Philippines .
Một báo cáo mới của Trung tâm báo chí điều tra Philippine cho thấy các ngân hàng Philippine đang tạo điều kiện cho “đường vòng” trong quá trình chuyển đổi của đất nước sang năng lượng bền vững và giá cả phải chăng .
Hơn nữa, việc thiếu khung pháp lý khiến các nhà cho vay của Philippines lo lắng và không sẵn sàng thích nghi. Điều này, cùng với sự thiếu hiểu biết và chuyên môn trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và không sẵn sàng tài trợ cho các dự án do giảm thiểu rủi ro và lo lắng về thỏa thuận bao tiêu, càng làm phức tạp thêm vấn đề.
Chênh lệch cho vay của các ngân hàng Philippine
Một rào cản khác là chênh lệch cho vay hoặc lợi nhuận. Các nhà máy điện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là các dự án điện chạy bằng than, thường cho vay lãi nhiều hơn so với các dự án năng lượng tái tạo ở Philippines . Điều này đúng bất chấp tác động bất lợi rõ ràng của khí hậu – điều mà các ngân hàng vi phạm bề ngoài phủ nhận. Chênh lệch cho vay đánh dấu sự chênh lệch giữa lãi suất đi vay và cho vay của ngân hàng.
Do chi phí tài trợ cho cơ sở hạ tầng nhiên liệu hóa thạch mới, đặc biệt là than đá, đang tăng lên do những lo ngại về khí hậu, một số ngân hàng ở Philippines đang cố gắng tận dụng mức lãi suất cao hơn bất chấp chi phí năng lượng tái tạo đang giảm.
Cam kết không có mạng của Philippines ở đâu?
Mặc dù luật mới của Philippines về đầu tư năng lượng tái tạo nước ngoài dù sao cũng là một bước phát triển tích cực, nhưng mục tiêu của chính phủ là năng lượng tái tạo chiếm 35% trong cơ cấu sản xuất điện vào năm 2030 và 50% vào năm 2040 đáng được xem xét kỹ hơn.
Làm thế nào đất nước có thể đạt đến mức 0 ròng khi năng lượng tái tạo chỉ chiếm 50% trong cơ cấu năng lượng vào năm 2040? Đó là chỉ 10 năm trước khi các cam kết bằng không của hầu hết các nước phát triển.
Hơn nữa, điểm chuẩn năm 2040 của nó khiến than, khí tự nhiên và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) vẫn ở mức 50% có vấn đề. Như vậy, câu trả lời là Philippines không thể đạt mức 0 ròng do lượng khí thải carbon khổng lồ từ các nhà máy điện chạy bằng than và khí tự nhiên.
Điều đó dẫn đến một vấn đề thậm chí còn sâu sắc hơn. Philippines thậm chí còn chưa thực hiện một cam kết bằng không. Đây là quốc gia duy nhất trong khối Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm 10 thành viên không đưa ra cam kết bằng không . Indonesia, quốc gia sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch, nền kinh tế đông dân nhất và lớn nhất của khối, thậm chí đã ngồi vào bàn đàm phán vào năm ngoái và đưa ra cam kết bằng không – mặc dù đó là vào năm 2060 thay vì 2050.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài
Tuy nhiên, nếu quốc gia tuyên bố cam kết bằng không, điều đó sẽ giúp mang lại nhiều đầu tư nước ngoài hơn cho lĩnh vực năng lượng tái tạo – mục tiêu chính của sự thay đổi chính sách mới. Điều này sẽ mang lại vòng tròn đầy đủ cho lĩnh vực năng lượng tái tạo của nó.
Nó cũng sẽ giúp ngành xoay trục khỏi những gì có thể được gọi là môi trường ngân hàng trong nước không thuận lợi. Ngoài ra, nó sẽ giúp quốc gia này tham gia mạng lưới số 0 toàn cầu vào năm 2050 nhằm thúc đẩy loại bỏ khí thải carbon và khí nhà kính có hại.



 
   
                     
