Triển vọng tăng trưởng của Việt Nam tạo động lực cho châu Á
Bởi Era Dabla-Norris, Federico J. Díez và Giacomo Magistretti
Triển vọng tăng trưởng lạc quan của Việt Nam đang chống lại xu hướng chậm lại ở những nơi khác ở châu Á, với lạm phát tương đối giảm, đây cũng là một ngoại lệ đối với quy luật chung trong khu vực.
Nửa đầu năm nay, kinh tế phục hồi nhanh chóng khi các hạn chế về đại dịch của Việt Nam được nới lỏng sau khi áp dụng chiến lược sống chung với COVID và một đợt tiêm chủng mạnh mẽ. Các chính sách hỗ trợ như lãi suất thấp, tăng trưởng tín dụng mạnh và Chương trình Phục hồi và Phát triển Kinh tế Xã hội của chính phủ đã đi kèm với sản lượng sản xuất mạnh mẽ và sự phục hồi trong hoạt động bán lẻ và du lịch.
Theo đó, gần đây chúng tôi đã nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam lên 7% trong năm nay, nâng toàn bộ điểm phần trăm so với ba tháng trước đó và là lần điều chỉnh tăng đáng kể duy nhất trong số các nền kinh tế lớn ở Châu Á. Chúng tôi đã hạ dự báo cho năm tới 0,5 điểm phần trăm xuống còn 6,7 phần trăm, nhưng điều đó vẫn trái ngược với triển vọng mờ nhạt ở những nơi khác và sẽ là tốc độ nhanh nhất trong số các nền kinh tế lớn của châu Á. Ngược lại, ước tính tăng trưởng cho châu Á đã giảm xuống 4,2% và 4,6% cho năm nay và năm tiếp theo trong Bản cập nhật Triển vọng Kinh tế Thế giới mới nhất của IMF.
Áp lực lạm phát của Việt Nam chủ yếu được giới hạn ở một số hàng hóa như nhiên liệu và các dịch vụ liên quan như vận tải. Người tiêu dùng phần lớn được cách ly khỏi sự gia tăng giá thực phẩm trên toàn cầu vì nguồn cung trong nước dồi dào, giá thịt lợn giảm so với mức đỉnh của năm ngoái và ưa thích gạo vẫn rẻ hơn so với các loại ngũ cốc khác như lúa mì. Hơn nữa, mức tăng giá đối với các dịch vụ, chẳng hạn như y tế và giáo dục, cũng rất nhẹ.
Giá tiêu dùng trong bảy tháng đầu năm đã tăng, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu 4% của ngân hàng trung ương trong năm. Sự phục hồi bị trì hoãn của nền kinh tế vào năm ngoái đã giữ lạm phát cốt lõi, làm giảm chi phí thực phẩm và năng lượng dễ biến động, thấp hơn các đồng nghiệp trong khu vực.
Tuy nhiên, lạm phát có thể tăng lên khi hoạt động kinh tế trở lại với tốc độ tối đa. Chi phí vận chuyển cao hơn và các mặt hàng như phân bón và thức ăn chăn nuôi cũng có thể làm tăng giá đối với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ hơn, gây thêm áp lực lạm phát.
Sự phục hồi của Việt Nam cũng gặp phải những trở ngại do tăng trưởng toàn cầu giảm tốc từ 6,1% năm ngoái. Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã hạ ước tính xuống 3,2% trong năm nay và 2,9% vào năm sau trong bối cảnh tác động của việc Nga xâm lược Ukraine và sự suy thoái ở Trung Quốc và các nền kinh tế tiên tiến lớn. Sự chậm lại như vậy có nghĩa là nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm, đặc biệt là từ các đối tác thương mại chính như Hoa Kỳ, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu.
Ngoài ra, các điều kiện tài chính đang được thắt chặt khi lãi suất ở Hoa Kỳ và các nền kinh tế tiên tiến khác tăng lên để kiềm chế lạm phát. Điều đó lại làm tăng chi phí tài chính và có thể dẫn đến dòng vốn chảy ra ngoài, như chúng ta đã thấy ở nhiều thị trường mới nổi trong khu vực.
Cuối cùng, sự không chắc chắn lớn hơn về thương mại toàn cầu và thị trường tài chính có thể đè nặng lên sự phục hồi, đặc biệt nếu một số ngành mất khả năng tiếp cận hàng hóa trung gian cần thiết do chuỗi cung ứng bị gián đoạn thêm. Điều đó có thể làm hạn chế đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, làm chậm tốc độ tăng trưởng sản xuất và công nghệ. Cùng với nhau, những yếu tố này có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách phải nhanh nhẹn và thực hiện những thay đổi kịp thời:
Chính sách tài khóa cần đi đầu trong việc hỗ trợ phục hồi, nhưng được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với các điều kiện kinh tế đang phát triển,
Ngân hàng trung ương nên tập trung vào rủi ro lạm phát gia tăng và thông báo rằng ngân hàng này đã sẵn sàng hành động khi cần thiết và vẫn cam kết đạt được mục tiêu lạm phát của mình.
Các cơ quan chức năng cũng cần tiếp tục xử lý các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng và giám sát chặt chẽ các rủi ro tiềm ẩn trên thị trường bất động sản để đảm bảo ổn định tài chính.
Ngay cả sau nhiều thập kỷ đạt được những thành tựu ấn tượng, Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức và cần phải có những cải cách kinh tế sâu rộng để đạt được các mục tiêu phát triển.
Ví dụ, tăng trưởng kinh tế tiềm năng bị giảm do chênh lệch hiệu suất giữa các công ty có năng suất cao hưởng lợi từ đầu tư trực tiếp nước ngoài và các công ty kém năng suất hơn khác. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bị cản trở bởi các quy định nặng nề, thủ tục hành chính rườm rà, quản trị doanh nghiệp yếu kém, cơ sở hạ tầng không đủ và khoảng cách kết nối kỹ thuật số.
Thị trường lao động sẽ được hưởng lợi từ việc giảm bớt sự không phù hợp dẫn đến nếu người lao động không có kỹ năng công việc phù hợp và việc làm chính thức hơn nên được khuyến khích bằng cách cải thiện kỹ năng và giảm chi phí để các công ty chính thức hóa.
Ở những nơi khác, độ bao phủ của mạng lưới an toàn xã hội cần được mở rộng và thực hiện hiệu quả hơn. Các rủi ro liên quan đến khí hậu có thể được giải quyết thông qua các hành động chính sách cụ thể để đầu tư vào thích ứng với khí hậu, giảm lượng khí thải carbon và đạt được chương trình nghị sự đầy tham vọng về môi trường của quốc gia.
Giải quyết những thách thức này sẽ giúp Việt Nam tiếp tục phát huy tiềm năng tăng trưởng đáng kể và tiếp tục thăng tiến trên con đường phát triển bền vững hướng tới tình trạng thu nhập cao hơn. Quan trọng là, chiến lược phát triển của đất nước đã bao gồm những cải cách như thế này và việc thực hiện một cách quyết định sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng xanh bền vững, bao trùm và toàn diện.
****
Era Dabla-Norris là trưởng phái đoàn Việt Nam và trợ lý giám đốc Vụ Châu Á và Thái Bình Dương của IMF.
Federico J. Díez là chuyên gia kinh tế cao cấp và Giacomo Magistretti là chuyên gia kinh tế trong nhóm Việt Nam của Vụ Châu Á và Thái Bình Dương.