Tổ chức điều phối truyền tải liên vùng Nhật Bản (OCCTO) phát triển phương pháp mới giúp giảm 22% công suất dự trữ điều khiển bậc ba (mục 2)

Tổ chức điều phối truyền tải liên vùng Nhật Bản (OCCTO) phát triển phương pháp mới giúp giảm 22% công suất dự trữ điều khiển bậc ba (mục 2)

    Tổ chức điều phối truyền tải liên vùng Nhật Bản (OCCTO) phát triển phương pháp mới giúp giảm 22% công suất dự trữ điều khiển bậc ba (mục 2)
    Ngày 17/11/2025 

    Tại cuộc họp Tiểu ban Thị trường Điều chỉnh Cung – Cầu vào ngày 13/11, Tổ chức điều phối liên vùng các nhà điều hành truyền tải (OCCTO) đã đề xuất một phương pháp mới có khả năng giảm khoảng 22% lượng công suất dự trữ điều khiển bậc ba mục (2) trên thị trường điều chỉnh cung cầu.

    (出所:OCCTO)

    Giải thích Hình 1: So sánh phương pháp dự báo hiện hành và phương pháp mới

    Hình 1 gồm hai phần chính:


    1. Phương pháp hiện tại: Dự báo mức độ tin cậy (信頼度階級予測)

    Biểu đồ bên trái

    • Đường cong năng lượng tái tạo (tái năng – 再エネ):

      • Đường đen: dự báo

      • Đường xanh lam / xanh lục: thực tế hoặc mức độ tin cậy

    • Có hai cấp độ tin cậy:

      • A (cao – 高)

      • B (thấp – 低)

    Dựa trên sai số dự báo trong quá khứ, hệ thống xây dựng hai bảng nhu cầu dự trữ:

    Bảng A (độ tin cậy cao)

    Dải sản lượng Nhu cầu dự trữ
    0–10% 50 MW
    90–100% 250 MW

    Bảng B (độ tin cậy thấp)

    Dải sản lượng Nhu cầu dự trữ
    0–10% 100 MW
    90–100% 500 MW

    Hệ thống dùng bảng A hoặc B tùy theo dự báo bức xạ mặt trời của ngày hôm sau và độ tin cậy của dự báo.


    2. Phương pháp mới: Dự báo độ rộng khoảng tin cậy (信頼区間幅予測)

    Biểu đồ bên phải

    • Đường cong tái năng dự báo được kèm khoảng tin cậy (confidence intervals).

    • Dấu mũi tên đỏ thể hiện “điểm rủi ro giảm” — tức mức thấp nhất mà sản lượng PV có thể giảm xuống.

    Cách tính

    • Dựa vào giá trị “độ rộng khoảng tin cậy” (tức mức có thể thấp hơn dự báo).

    • Từ đó tính trực tiếp lượng dự trữ cần thiết.

    Ví dụ bảng:

    Độ rộng khoảng tin cậy bức xạ Nhu cầu dự trữ
    100 W/m² 350 MW

    Phương pháp này dự báo trực tiếp độ lệch âm (downside deviation), nên xác định được nhu cầu dự trữ cần thiết mà không cần hai bảng A và B.

    Hạn chế của phương pháp hiện tại

    Phương pháp hiện nay – “dự báo mức độ tin cậy” – xây dựng hai bảng nhu cầu dự trữ (độ tin cậy cao/độ tin cậy thấp) dựa trên sai số dự báo năng lượng tái tạo trong quá khứ. Lượng công suất dự trữ cần thiết được xác định tùy theo bức xạ mặt trời dự kiến của ngày hôm sau và phân loại độ tin cậy.

    Phương pháp mới: Dự báo độ rộng khoảng tin cậy

    Phương pháp mới, dự báo khoảng tin cậy, do NEDO phát triển, ước tính trực tiếp mức “rủi ro giảm” – tức công suất dự trữ cần thiết – dựa trên khoảng giá trị thấp nhất dự báo bức xạ mặt trời.

    Phương pháp này dễ dàng tận dụng cải thiện độ chính xác dự báo, nhưng cũng có khả năng tạo ra sai lệch trong một số tình huống.

    Nếu áp dụng toàn diện, dự báo khoảng tin cậy có thể làm giảm nhu cầu dự trữ trong từng khung thời gian, nhưng trên cơ sở tháng hoặc năm, nhu cầu có thể tăng so với phương pháp hiện tại. Do đó, OCCTO đề xuất phương pháp lai kết hợp cả hai.

    (出所:OCCTO)

    1. Biểu đồ trái: So sánh nhu cầu dự trữ theo từng tháng (phương pháp cũ vs. phương pháp mới)

    Đặc điểm:

    • Cột lam = phương pháp hiện tại

    • Cột cam = phương pháp mới

    • Con số Δ% = mức giảm theo phương pháp mới

    Kết quả nổi bật:

    • Các tháng đều giảm nhu cầu dự trữ (từ -9% đến -34%).

    • Trung bình năm: giảm 22%.


    2. Biểu đồ phải: Tổng kết nhu cầu điều chỉnh theo từng phương pháp

    • Cột lam: tổng nhu cầu năm theo phương pháp hiện hành

    • Cột cam: tổng nhu cầu năm theo phương pháp mới

    • Mức giảm tổng thể cũng là 22% (trùng kết quả báo cáo).


    3. Bảng “các điều chỉnh áp dụng trong thử nghiệm”

    Gồm 3 mục:

    (1) Phạm vi đối tượng

    • Tính từ “thực tế ngày hôm trước” đến “nhu cầu thực tế”.

    (2) Đối tượng dự báo

    • PV (điện mặt trời) là nguồn được dùng cho dự báo khoảng tin cậy.

    • PV và gió được dùng trong tính toán dự trữ bậc 3 (mục 2).

    (3) Phương pháp điều chỉnh

    • Tương tự phương pháp hiện tại, dựa trên quan hệ GC → thực phát.

    • Tạo bảng dự trữ cho các nguồn (PV, gió).

    • Sau đó cộng bù dựa trên mức sai số dự báo.


    4. Điều kiện khác của thử nghiệm

    • Dựa trên dữ liệu thực tế năm 2023 (khu vực Chubu).

    • Tính theo mỗi 30 phút giao dịch.

    • Sai số dự báo tái năng giả định ×3.

    • Khi dữ liệu thiếu, hệ thống lấy giá trị 0.

    Phương pháp lai

    Theo cách tiếp cận này:

    • Dự báo mức độ tin cậy hiện tại được dùng làm giới hạn trên của nhu cầu dự trữ.

    • Với mỗi khung thời gian, giá trị nhỏ hơn giữa:

      • lượng cần thiết theo dự báo mức độ tin cậy, và

      • lượng cần thiết theo dự báo độ rộng khoảng tin cậy
        sẽ được chọn làm lượng dự trữ bậc ba mục (2) cần dùng.

    Kết quả thử nghiệm: Giảm tới 22%

    Sử dụng dữ liệu thực tế năm 2023 tại khu vực Chubu, OCCTO ghi nhận nhu cầu dự trữ giảm ở tất cả các tháng, với tổng mức giảm khoảng 22%, tương đương 878 GW công suất dự trữ bậc ba (mục III) trong năm.

    Tuy nhiên, trong một số khung thời gian đã xuất hiện tình trạng ước tính thấp hơn nhu cầu thực tế, dẫn đến thâm hụt dự trữ. Việc xác minh sau đó cho thấy phần lớn thiếu hụt có thể được bù bằng hợp đồng sử dụng công suất dư thừa. OCCTO khẳng định phương pháp mới không gây rủi ro đối với tính ổn định nguồn cung.

    Cần nghiên cứu sâu hơn

    Do kết quả hiện mới dựa trên dữ liệu của một khu vực duy nhất, OCCTO cho rằng cần có đánh giá rộng hơn. Tổ chức dự kiến chuyển dần từ phương pháp dự báo mức độ tin cậy sang phương pháp lai (dự báo mức độ tin cậy + dự báo độ rộng khoảng tin cậy), đồng thời phối hợp với các công ty truyền tải – phân phối điện trên cả nước để tiếp tục kiểm chứng bằng dữ liệu vận hành thực tế.

    Zalo
    Hotline