Thu giữ và lưu trữ carbon: Con đường táo bạo phía trước cho ASEAN
Nhiên liệu hóa thạch chiếm 83% hỗn hợp năng lượng của ASEAN. Với nhu cầu năng lượng dự kiến sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2050 so với mức năm 2020, tính cấp thiết của quá trình chuyển đổi sang carbon thấp là rất rõ ràng. Chín quốc gia ASEAN đã cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 hoặc trung hòa carbon vào giữa thế kỷ.
Không giống như một số quốc gia phát triển và mới nổi, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và lượng khí thải CO2 của ASEAN đã tăng song song do phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch như một nguồn năng lượng đáng tin cậy và giá cả phải chăng. Từ năm 2005 đến năm 2022, mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải nhà kính đã tăng lần lượt là 3% và 4%, vượt qua mức trung bình toàn cầu là 1%, vượt qua mức trung bình toàn cầu là 1%.
Các công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon (CCS) thu giữ khí thải carbon và lưu trữ chúng vĩnh viễn trong các thành tạo địa chất. Khi carbon thu giữ được sử dụng cho các ứng dụng khác nhau, thì nó được gọi là thu giữ và sử dụng carbon (CCU). Sự kết hợp của cả hai quy trình được gọi là thu giữ, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS).
Các công nghệ này nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giữa các hoạt động năng lượng hiện tại và tương lai bền vững bằng cách triển khai sử dụng nhiên liệu hóa thạch một cách thận trọng trong khi giảm lượng khí thải carbon.
Bối cảnh công nghiệp Đông Nam Á và vai trò của CCS
Bối cảnh công nghiệp của khu vực này phụ thuộc rất nhiều vào than và khí đốt tự nhiên, đặc biệt là trong xi măng và thép. Các ngành công nghiệp này đòi hỏi nhiệt độ đốt nhiên liệu cao, rất khó hoặc không thể sao chép bằng điện, trong khi một số ngành cũng tạo ra CO2 như một phần hóa học cơ bản của chúng.
Khu vực này, đặc biệt là Indonesia, đang sẵn sàng trở thành một trong ba trung tâm toàn cầu hàng đầu về công nghiệp nặng, do vị trí địa lý thuận lợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào nhanh chóng, chi phí lao động tương đối thấp và tiềm năng thị trường đáng kể. Tuy nhiên, ngành công nghiệp nặng chiếm 15% lượng khí thải CO2 trên toàn thế giới và tại ASEAN, họ tạo ra 20% lượng khí thải của ngành năng lượng.
Bên cạnh những cải tiến về hiệu quả năng lượng, CCS nổi lên như một trong số ít các giải pháp có thể mở rộng quy mô dành cho các lĩnh vực khó khử cacbon này, có khả năng giảm tới 90% lượng khí thải. Các báo cáo cho thấy mục tiêu phát thải ròng bằng 0 trong các ngành công nghiệp này nếu không có CCS có thể là điều không thể và, tốt nhất là tốn kém hơn.
CCS và Năng lượng tái tạo: Vai trò bổ sung
CCS và năng lượng tái tạo đều đảm nhiệm các vai trò thiết yếu nhưng riêng biệt trong khuôn khổ rộng hơn của quá trình chuyển đổi năng lượng. CCS có thể cung cấp điện có thể điều độ hoạt động linh hoạt ở mức tải thấp hơn, không chỉ để bổ sung cho sản lượng từ năng lượng tái tạo không liên tục mà còn tạo điều kiện tăng công suất năng lượng tái tạo trên lưới điện. Nó cung cấp sự an toàn cần thiết cho nguồn cung và các dịch vụ ổn định lưới điện. Mặt khác, năng lượng tái tạo rất quan trọng để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch trong dài hạn.
Theo đó, sản xuất hydro carbon thấp thông qua than hoặc khí đốt tự nhiên với CCS là giải pháp tiết kiệm chi phí nhất ở những khu vực thiếu tài nguyên tái tạo. Phương pháp này không chỉ phù hợp với nhu cầu cấp thiết là tăng sản lượng hydro từ 70 triệu tấn lên 425-650 triệu tấn mỗi năm vào giữa thế kỷ mà còn hỗ trợ mục tiêu phát thải ròng bằng 0 khi điện khí hóa trực tiếp đang là thách thức.
Cơ hội độc đáo của ASEAN thông qua hợp tác khu vực
ASEAN có cơ hội độc đáo để dẫn đầu về công nghệ CCS, coi biến đổi khí hậu là cơ hội đầu tư xanh hơn là thách thức. Nhiều nước đã đưa CCS vào các chiến lược khí hậu của mình, bao gồm Chiến lược dài hạn về khả năng phục hồi khí hậu và carbon thấp của Indonesia năm 2050, Lộ trình chuyển đổi năng lượng ròng bằng 0 của Malaysia, Chiến lược phát triển phát thải khí nhà kính thấp dài hạn của Thái Lan, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu năm 2050 của Việt Nam và Chiến lược phát triển phát thải thấp dài hạn năm 2020 của Singapore.
Việc triển khai CCS đòi hỏi đầu tư đáng kể. ASEAN có thể giảm chi phí và rủi ro thông qua hợp tác khu vực, chia sẻ kiến thức, chuyển giao công nghệ và R&D chung. Việc chuẩn hóa các quy định và chia sẻ các thông lệ tốt nhất có thể hợp lý hóa việc cấp phép và phê duyệt, đẩy nhanh quá trình phát triển dự án và tối ưu hóa vận chuyển và lưu trữ carbon.
Các trung tâm CCS được kết nối có thể cắt giảm chi phí thông qua quy mô kinh tế, giúp vận chuyển và lưu trữ CO2 trở nên hợp lý và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, đồng thời hỗ trợ kế hoạch chung của khu vực hướng tới hợp tác năng lượng theo Kế hoạch hành động ASEAN về hợp tác năng lượng. Việc di chuyển CO2 xuyên biên giới cho phép các quốc gia phát thải cao với lượng lưu trữ hạn chế hợp tác với các quốc gia có năng lực dồi dào. Một ví dụ điển hình là LOI Singapore-Indonesia, dựa trên quy định CCS năm 2024 của Indonesia cho phép 30% công suất lưu trữ cho carbon nước ngoài.
Mặc dù đầu tư vào các dự án CCS ở Đông Nam Á trung bình gần 1 tỷ đô la mỗi năm, nhưng có thể kích thích tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều cơ hội việc làm. ILO lưu ý rằng mặc dù Thỏa thuận Paris có thể thay thế việc làm, nhưng nó cũng
tạo ra cơ hội việc làm toàn cầu. Tuy nhiên, CCS hỗ trợ quá trình chuyển đổi công bằng, bằng cách cho phép các ngành công nghiệp đóng góp về mặt kinh tế trong khi tiến tới trung hòa carbon.
Giải quyết các thách thức của CCS
Việc áp dụng CCS tại ASEAN phải đối mặt với những thách thức riêng do điều kiện kinh tế và địa chất đa dạng của khu vực. Chi phí ban đầu cao và mức giá trần carbon khu vực thường không đạt mức hiệu quả cản trở việc triển khai các công nghệ CCS. Để vượt qua những rào cản tài chính này, các nước ASEAN nên khám phá các mô hình tài chính sáng tạo và thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Về mặt công nghệ, các nước ASEAN chậm phát triển năng lực CCS, với hầu hết vẫn đang trong giai đoạn sơ bộ thiếu các dự án thí điểm và chuyên môn cần thiết. Khoảng cách đổi mới này đòi hỏi phải tăng cường nghiên cứu, xây dựng năng lực và chia sẻ kiến thức.
Hỗ trợ chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình áp dụng CCS. Trong khi các quốc gia như Indonesia và Malaysia đã đạt được những bước tiến đáng kể với khuôn khổ pháp lý, không phải tất cả các quốc gia ASEAN đều có chính sách phát triển đầy đủ. Tuy nhiên, đang có một phong trào ngày càng tăng hướng tới việc triển khai các cơ chế định giá carbon, đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu chi phí cao của CCS.
Trong khi lưu trữ CO2 theo phương pháp địa chất cung cấp một giải pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu an toàn, thì nó vẫn phải đối mặt với những rủi ro, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình bơm. Kinh nghiệm của Na Uy với các dự án CCS của Sleipner và Snøhvit nêu bật nhu cầu về dữ liệu địa chấn, nhật ký giếng khoan và các dữ liệu địa chất khác chính xác, cũng như các quy định chuyên biệt về MRV để đảm bảo an toàn và trách nhiệm giải trình lâu dài, đặc biệt là đối với các khu vực ASEAN dễ bị thiên tai.
Việc không có một thỏa thuận quốc tế thống nhất về vận chuyển CO2 xuyên biên giới, cùng với các quốc gia đích lưu trữ như Indonesia, Malaysia và Thái Lan không phải là bên tham gia Nghị định thư London, làm phức tạp thêm việc tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường. Các dự án CCS xuyên biên giới hiệu quả phải giải quyết những phức tạp này và tuân thủ các biện pháp bảo vệ môi trường nghiêm ngặt.
Trước những cơ hội và thách thức này, Trung tâm Năng lượng ASEAN (ACE) hiện đang xây dựng Khung và Lộ trình triển khai CCS để đánh giá tình hình hiện tại và lập kế hoạch chiến lược cho các hành động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần thiết để triển khai CCS thành công tại ASEAN.
Nhận thấy tính cấp thiết của các cuộc thảo luận, hợp tác và chia sẻ kiến thức giữa các quốc gia thành viên ASEAN và các hoạt động CCS quốc tế, ACE, hợp tác với Viện CCS toàn cầu, đã tổ chức ba loạt Hội thảo Tăng tốc CCS Đông Nam Á (SEACA). Hội thảo này quy tụ những người tham gia từ chính phủ, khu vực công và tư nhân, các viện nghiên cứu, v.v. Chuỗi hội thảo mới nhất vào tháng 8 năm 2024 tập trung vào việc thảo luận về chuỗi giá trị CCS xuyên quốc gia của Châu Á.
Quá trình chuyển đổi sang tương lai carbon thấp đòi hỏi nhiều hơn là chỉ CCS. Nó đòi hỏi phải cải thiện hiệu quả năng lượng, áp dụng năng lượng tái tạo và phát triển các vật liệu và quy trình sản xuất thay thế. Một cách tiếp cận toàn diện tích hợp CCS là điều cần thiết để đạt được mục tiêu giảm phát thải đáng kể và đảm bảo tương lai năng lượng bền vững, khả thi về mặt kinh tế cho ASEAN.
Mời các đối tác xem hoạt động của Công ty TNHH Pacific Group.
FanPage: https://www.facebook.com/Pacific-Group
YouTube: https://www.youtube.com/@PacificGroupCoLt