GWEC kêu gọi Việt Nam mở rộng chương trình năng lượng gió
Từ Vietnam Investment Review
Việt Nam là thị trường năng lượng gió phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á, với 500MW công suất lắp đặt trên bờ và ngoài khơi, và thêm 4GW sẽ được kết nối vào năm 2025. Liming Qiao, Giám đốc châu Á của Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu, cho biết Nguyễn Thu của VIR như thế nào Chương trình thuế nhập khẩu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam, đã thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp gió, phải được gia hạn khẩn cấp để duy trì sự thèm muốn của các nhà đầu tư và tránh kịch bản phá sản.
Hội đồng Năng lượng gió Toàn cầu đang kêu gọi chính phủ Việt Nam gia hạn thuế gió và duy trì vị trí dẫn đầu trong khu vực về đầu tư năng lượng sạch. Lý do đằng sau điều này là gì?
Liming Qiao, Giám đốc Châu Á của Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu
Gió có thể là một nguồn tài nguyên đáng tin cậy để giúp đáp ứng nhu cầu tìm nguồn cung cấp điện của Việt Nam. Do việc xây dựng một số nhà máy nhiệt điện than bị chậm tiến độ, hệ thống điện miền Nam Việt Nam có khả năng xảy ra tình trạng thiếu điện. Gió có thể đóng một vai trò lớn trong việc lấp đầy khoảng trống đó.
Việt Nam có tiềm năng lớn về tài nguyên gió cả trên bờ và ngoài khơi, có thể cung cấp nguồn năng lượng đáng tin cậy cho địa phương. Nó cũng đóng góp vào chiến lược giảm thiểu khí hậu của quốc gia, thay đổi quy trình của hệ thống năng lượng từ hệ thống phát thải cao thành hệ thống thân thiện với các-bon.
Giảm chi phí cho công nghệ tuabin gió đã đạt được trên toàn cầu. Vẫn còn phải giảm chi phí rất lớn cho Việt Nam trong tương lai, nhưng nó sẽ chỉ xảy ra nếu một chuỗi cung ứng gió hoàn thiện hơn được thiết lập. Và điều này có nghĩa là cần phải tránh một chu kỳ bùng nổ và phá sản trong quá trình phát triển gió. Quyết định chậm trễ về việc gia hạn thuế nhập khẩu (FiT) rất có thể sẽ tạo ra sự bùng nổ cho phát triển gió vào năm 2022-2023 sau khi bùng nổ vào năm tới, đây sẽ không phải là điều tốt cho ngành và cả Việt Nam sẽ được hưởng đường cong giảm chi phí mượt mà hơn nhiều.
Chúng tôi đã thấy các nhà đầu tư chậm lại hoặc ngừng ban hành các quyết định đóng cửa tài chính mới và điều này hiện đang ảnh hưởng đến ngành. Hiệu ứng sẽ hiển thị sau hai năm và chúng ta sẽ thấy sự phát triển giảm dần vào năm 2022-2023. Điều này có thể tránh được nếu các nhà hoạch định chính sách nhận thức được đặc điểm của ngành và do đó có thể đảm bảo một môi trường thuận lợi hơn cho ngành trong nước phát triển.
Việt Nam đã thu hút sự quan tâm đáng kể của các nhà phát triển và tài chính quốc tế như một thị trường đang phát triển nhanh với nhiều tiềm năng. Nhưng đâu là điểm nghẽn đối với họ ở đây?
Một dự án gió điển hình sẽ mất từ 18 tháng đến hai năm để đi vào hoạt động thương mại. Và giờ đây, các nhà đầu tư không thấy khả năng có một dự án mới đạt được thời điểm đó trước tháng 11 năm 2021, vì vậy họ khó có thể đưa ra quyết định đầu tư cho đến khi có quyết định gia hạn FiT.
GWEC kêu gọi Việt Nam mở rộng chương trình năng lượng gió
Bất chấp những tác động tồi tệ của COVID-19 đối với nhiều ngành công nghiệp, các đơn đặt hàng cho ngành công nghiệp gió ngoài khơi toàn cầu đã tăng đáng kể trong nửa đầu năm 2020. Với công nghệ vẫn đang được cải thiện và giá điện giảm, ngành gió có thể trở nên đáng tin cậy đến mức nào?
Gió ngoài khơi đã chứng minh cho thế giới thấy rằng nó đáng tin cậy về mặt kỹ thuật và khả thi về mặt kinh tế - giảm chi phí của gió ngoài khơi đạt hơn 40% trên toàn cầu trong 10 năm qua.
Do quy mô phát triển và tiềm năng tài nguyên, cùng với độ tin cậy kỹ thuật cao, gió cung cấp rất nhiều dạng nguồn năng lượng phụ tải cơ bản, rất khác so với bản chất biến đổi của các nguồn năng lượng tái tạo khác.
Vì vậy, gió ngoài khơi, với tư cách là một công nghệ, có thể được coi là một giải pháp đáng tin cậy và vững chắc để khử cacbon trong hệ thống năng lượng toàn cầu.
Việt Nam có tiềm năng lớn, nên nắm bắt cơ hội và bắt đầu phát triển càng sớm càng tốt.
Các công nghệ và xu hướng mới làm tăng sản lượng và giảm chi phí cho các dự án gió như thế nào?
Rất nhiều đổi mới công nghệ đã xảy ra. Ví dụ, các cánh quạt dài hơn và chiều cao của trục cao hơn cho phép các tuabin gió thu được nhiều tài nguyên gió hơn và hoạt động ở những vùng ít gió hơn. Bây giờ có thể có tuabin cho tốc độ gió dưới 5 mét / giây. Ngoài ra còn có các công cụ tốt hơn cho các địa điểm và đo gió đảm bảo tối ưu hóa cho các trang trại gió mới.
Hơn nữa, có những vật liệu mới cho lưỡi và thân để làm cho chúng nhẹ hơn nhưng đồng thời chắc chắn hơn, cũng như các lớp phủ mới để làm cho chúng có khả năng chống xói mòn và các tác động khác do thời tiết gây ra.
Nguyễn Thu