Các quyết định về chính sách năng lượng của Nhật Bản có ý nghĩa quyết định trong việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu với tư cách là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và là nước phát thải carbon lớn thứ năm. Tuy nhiên, thay vì dẫn đầu quá trình chuyển đổi năng lượng sạch, quốc gia này lại thúc đẩy các giải pháp tốn kém và đáng ngờ , có nguy cơ làm chệch hướng hành trình không sử dụng năng lượng ròng trên toàn cầu.
![]()
Nhật Bản đang nhanh chóng trở thành quốc gia kỳ lạ trong nhóm G7 về chính sách khí hậu. Các nhà khoa học, nhà phân tích và các nhóm môi trường và xã hội coi đây là thủ phạm của việc không hành động vì biến đổi khí hậu. Đã đến lúc lãnh đạo chính phủ và doanh nghiệp Nhật Bản phải thay đổi nhận thức đó.
Kết quả là Nhật Bản hiện đang bị cô lập và có nguy cơ trở thành nhân vật phản diện về khí hậu trong số các đối tác G7 và cộng đồng quốc tế. Áp lực cuối cùng để thoát khỏi lợi ích của hành lang về nhiên liệu hóa thạch đang ngày càng gia tăng. Liệu các nhà lãnh đạo chính phủ và doanh nghiệp Nhật Bản có hành động về vấn đề này hay không sẽ quyết định phía lịch sử mà đất nước sẽ đứng về phía nào.
Trọng tâm của Chính sách Năng lượng và Năng lượng Tái tạo của Nhật Bản
NDC hiện tại của Nhật Bản đặt mục tiêu giảm phát thải 46% vào năm 2030 so với mức năm 2013 và trung hòa carbon vào năm 2050. Nước này đã không cải thiện các mục tiêu của mình kể từ năm 2021. Nhật Bản nên giảm lượng phát thải khí nhà kính.
Công cụ theo dõi hành động vì khí hậu mô tả các mục tiêu hiện tại là chưa đủ. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn chưa có khả năng gặp họ.
Xếp hạng chính sách năng lượng của Nhật Bản, Nguồn: Theo dõi hành động khí hậu
Trong số các công cụ chính sách năng lượng quan trọng mà Nhật Bản đã đưa ra để giúp đạt được các mục tiêu của mình là Chiến lược Chuyển đổi Xanh (GX) . Đó là lộ trình đầu tư để sử dụng hơn 1,1 nghìn tỷ USD nguồn tài chính công và tư nhân trong thập kỷ tới. Chương trình này nhằm mục đích chuyển đổi ngành công nghiệp, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng và thúc đẩy tính trung hòa carbon.
Mặc dù tên gọi của nó gợi ý sự tập trung mạnh mẽ vào các nguồn năng lượng tái tạo nhưng trên thực tế, GX ưu tiên các công nghệ giúp kéo dài tuổi thọ của nhiên liệu hóa thạch. LNG, các chương trình đồng đốt amoniac, thu hồi và lưu trữ hydro và carbon xanh (CCS) nằm trong số đó.
Hơn nữa, kế hoạch năng lượng cơ bản nhằm mục đích xuất khẩu những công nghệ này sang các nước đang phát triển ở Đông Nam Á.
Nhật Bản sẽ mất gì từ chính sách năng lượng của mình
Nhật Bản đang nỗ lực mở rộng sử dụng nhiên liệu hóa thạch vào thời điểm nền kinh tế năng lượng ưu tiên cung cấp năng lượng tái tạo. Theo ước tính, về mặt kỹ thuật, quốc gia này có thể tạo ra 90% năng lượng sạch vào năm 2035. Thậm chí chỉ cần 18% thị phần gió ngoài khơi vào năm 2035 cũng có thể đưa nước này đi đúng hướng hướng tới ngành điện giảm 90% lượng cacbon.
Hơn nữa, việc tập trung vào nhiên liệu hóa thạch gây ra nhiều rủi ro cho Nhật Bản.
Thúc đẩy biến đổi khí hậu
Theo Climate Action Tracker, nếu tất cả các quốc gia làm theo cách tiếp cận của Nhật Bản, nhiệt độ nóng lên sẽ đạt trên 2°C và thậm chí lên tới 3°C .
Ví dụ, mức tăng 2,4°C sẽ ảnh hưởng đáng kể đến Nhật Bản. Mực nước biển dâng cao, xói mòn bờ biển và hình thái bão thay đổi sẽ khiến 4 triệu người Nhật Bản phải hứng chịu lũ lụt tàn khốc vào năm 2050. Đặc biệt, Bán đảo Kii có thể phải đối mặt với lượng mưa trên 3.000 mm mỗi năm, trở thành khu vực cận nhiệt đới mưa nhiều nhất thế giới.
Lượng mưa sẽ trở nên không cân xứng, với một số khu vực có mưa xối xả trong khi những khu vực khác lại bị hạn hán – ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Tiềm năng đánh bắt cá sẽ giảm tới 10,6%. Hạn hán khi đó sẽ khiến nhu cầu nước tăng tới 4,9% vào năm 2050.
Nhật Bản từ lâu đã nhận thức được tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Tuy nhiên, nó đứng thứ 50 trong Chỉ số Hiệu suất Biến đổi Khí hậu Toàn cầu với mức xếp hạng rất thấp. Quốc gia này xếp hạng thấp hơn đáng kể so với các quốc gia mà nước này hứa hẹn sẽ hỗ trợ khử cacbon, bao gồm cả Việt Nam và Indonesia.
Và nó đang phải trả một cái giá rất cao cho việc đó. Vào năm 2023, Nhật Bản đã trải qua mùa hè nóng nhất được ghi nhận với mức chênh lệch đáng kể. Nhiệt độ cao hơn mức trung bình 1,78°C, đánh bại kỷ lục trước đó vào năm 2010 là 1,08°C. Chỉ riêng tháng 7, gần 50.000 người cần được chăm sóc y tế khẩn cấp, với ít nhất 53 người chết vì say nắng. Các đợt nắng nóng dự kiến sẽ trở nên phổ biến hơn và đặc biệt nguy hiểm đối với Nhật Bản vì quốc gia này có dân số già thứ hai trên thế giới.
Đây không chỉ là sự kiện xảy ra một lần mà là một khuôn mẫu rõ ràng. Năm 2022, gần 4.500 người phải nhập viện vì các vấn đề liên quan đến nhiệt độ. Năm 2019, 57 người chết và hơn 18.000 người phải nhập viện. Trong khi đó, số người chết năm 2018 là 138 người , với hơn 71.000 người được đưa đến bệnh viện.
Một thảm họa kinh tế và tài chính
Khoảng 3,72% GDP của Nhật Bản đang bị đe dọa do mực nước biển dâng, xói mòn bờ biển và thời tiết xấu đi vào năm 2050. Đến năm 2070, mực nước biển dâng có thể khiến Nhật Bản thiệt hại hơn 570 tỷ USD . Theo kịch bản phát thải cao mà thế giới đang hướng tới, thiệt hại có thể lên tới 1,3 nghìn tỷ USD.
Năm 2022, quốc gia này tạo ra 71% điện năng từ nhiên liệu hóa thạch. Hơn nữa, nước này phụ thuộc vào nhập khẩu 90% nhu cầu năng lượng, đồng thời là nhà nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới . Kết quả là Nhật Bản có điểm độc lập về năng lượng chỉ là 13,8% .
Theo BNEF, Nhật Bản đã chi 1,8 nghìn tỷ USD cho việc nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch từ năm 2010 đến năm 2022. Đây là mức chi tiêu trung bình hàng năm trên 3% GDP. Nước này có kế hoạch nhập khẩu khí đốt trong ít nhất 10 đến 15 năm , mặc dù các nhà phân tích lưu ý rằng cơ sở hạ tầng thượng nguồn và LNG sẽ gặp khó khăn vào khoảng năm 2030.
Bỏ qua tác động môi trường, các công nghệ được đề xuất trong GX cũng sẽ tỏ ra tốn kém và ít có khả năng tồn tại về mặt thương mại. Các học giả , chính trị gia , nhà phân tích và các nhóm môi trường đặt câu hỏi về tính khả thi, khả năng chi trả và hiệu quả của kế hoạch đồng đốt amoniac.
Nhiên liệu cũng sẽ chủ yếu đến từ nước ngoài , làm trầm trọng thêm sự phụ thuộc vào năng lượng của đất nước và khiến đất nước rơi vào tình trạng biến động giá cả. Các chương trình đồng đốt than sử dụng nguồn amoniac rẻ nhất (màu xám) có chi phí cao gấp 4 lần so với than nhiệt . Sử dụng amoniac xanh đắt hơn khoảng 15 lần so với đốt than. CCS cũng vẫn là một công nghệ đắt tiền chưa được chứng minh trên quy mô lớn. Trường hợp của hydro cũng vậy .
Mặt khác, năng lượng sạch đã rẻ hơn và khoảng cách dự kiến sẽ còn rộng hơn vào năm 2030.
LCOE cho các nguồn điện khác nhau ở Nhật Bản vào năm 2030, Nguồn: TransitionZero
Trở thành nhân vật phản diện về khí hậu
Nhật Bản từ lâu đã được coi là thủ phạm của việc mở rộng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên khắp châu Á. Nó đã trở thành mục tiêu phản đối của công chúng bởi các nhà hoạt động khí hậu và các nhóm xã hội ở các quốc gia nơi nó đang xuất khẩu công nghệ của mình, bao gồm Bangladesh , Philippines và Indonesia . Hơn 140 nhóm từ 18 quốc gia đã gửi thư tới Thủ tướng Fumio Kishida yêu cầu ngừng mở rộng việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và làm chệch hướng quá trình chuyển đổi năng lượng sạch của châu Á.
JERA, nhiều tập đoàn Nhật Bản và các nhà tài trợ nhiên liệu hóa thạch cũng đang cảm nhận được sức nóng từ các nhà hoạt động Nhật Bản lo ngại về việc liên tục hỗ trợ nhiên liệu hóa thạch và chính sách năng lượng của đất nước. Các nhóm hoạt động đầu tư đang gửi thư tới các ngân hàng hàng đầu để xem xét lại việc cung cấp các khoản vay cho JERA. Trong khi đó, IEEFA cáo buộc JBIC và chính phủ Nhật Bản không nghiêm túc trước những lo ngại về khí hậu hoặc gánh nặng tài chính của điện than ở các quốc gia đang phát triển.
Price of Oil International gọi chiến lược GX của Nhật Bản là “ một cuộc tập trận tẩy xanh ”, trong khi BNEF mô tả các kế hoạch về amoniac của mình là “ đắt đỏ và rất bẩn thỉu ”.
Nhật Bản là hình ảnh thu nhỏ của việc đặt lợi ích nhiên liệu hóa thạch của doanh nghiệp lên trên lẽ thường.
Theo Kimiko Hirata, người sáng lập Kiko Network and Climate Integrate, nước này rất quan tâm đến việc kéo dài tuổi thọ của nhiên liệu hóa thạch, vì nhiều công ty tư nhân đã tích cực tham gia vào các dự án như vậy và không muốn mất khoản đầu tư của mình. Bà nói thêm rằng hầu hết trong số họ đều gắn liền với Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp và các đảng phái chính trị trong nước. Kết quả là, chúng có ảnh hưởng ngăn cản tiến trình chính sách khí hậu.
Những tuyên bố như thế này cũng được ủng hộ bởi thực tế là thuế suất carbon ở Nhật Bản thuộc loại thấp nhất trên toàn cầu. Hơn nữa, có sự phản đối rất mạnh mẽ đối với thuế carbon từ các lợi ích nhiên liệu hóa thạch được đảm bảo trong nước.
Bị tụt lại phía sau G7
Đăng cai tổ chức hội nghị thượng đỉnh G7 vào năm 2023 được mô tả là khoảnh khắc tự hào dân tộc của Nhật Bản và là cơ hội hoàn hảo để thể hiện khả năng lãnh đạo về khí hậu. Đất nước này không chỉ bỏ lỡ cơ hội này mà còn tự cô lập mình với các quốc gia G7 khác về chủ đề nhiên liệu hóa thạch và biến đổi khí hậu.
Trước cuộc họp G7, một quan chức Pháp được Reuters phỏng vấn cho biết: “Có sự thống nhất rất mạnh mẽ giữa các thành viên G7 khác để tránh bất kỳ và tất cả ngôn ngữ có lợi cho nhiên liệu hóa thạch và thăm dò khí đốt trong các cuộc đàm phán này”.
Tuy nhiên, Nhật Bản đang đi sau các nước G7 về tiến trình khử cacbon. Nó có tỷ trọng điện than cao nhất trong tổng sản lượng phát điện trong năm thứ tư liên tiếp, với 33% . Không giống như các thành viên G7 khác , Nhật Bản thiếu kế hoạch cụ thể để loại bỏ than. Trên thực tế, đây vẫn là quốc gia G7 duy nhất có kế hoạch xây dựng các nhà máy than mới.
Đất nước sẽ cần các biện pháp quyết liệt trong thời gian ngắn để phù hợp với các mục tiêu khử cacbon, điều này có vẻ phi thực tế so với những hành động gần đây của nước này.
Tiến trình hướng tới các mục tiêu năng lượng sạch, Nhật Bản, 2020 – 2040, Nguồn: Ember Climate
Nhật Bản cũng có tỷ trọng năng lượng sạch thấp nhất trong G7 và tỷ lệ sử dụng năng lượng gió chỉ 1% là yếu nhất trong nhóm.
G7 cam kết xây dựng 150 GW năng lượng gió ngoài khơi vào năm 2030. Tuy nhiên, đến năm 2030, chỉ 4% sẽ ở Nhật Bản, cho thấy nước này đã tụt hậu xa đến mức nào trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
Việc đất nước này miễn cưỡng cam kết khử cacbon toàn bộ ngành điện vào năm 2035 và tham vọng về than sạch của nước này đã thu hút sự chỉ trích từ phần còn lại của G7. Hơn nữa, các quan chức G6 còn gọi Nhật Bản là “ trở ngại ” trong chương trình chuyển đổi năng lượng của G7. Nhóm cũng thách thức chiến lược GX của Nhật Bản và khả năng tồn tại của các công nghệ được đề xuất.
Nhật Bản có thị phần năng lượng sạch thấp nhất trong số G7, Nguồn: Ember
Trở lại đúng hướng: Câu hỏi về ý chí chính trị
Tại COP28, các nước G7 phải thể hiện vai trò lãnh đạo trong việc đảm bảo một tương lai đáng sống. Tuy nhiên, Nhật Bản một lần nữa sẽ là kẻ lẻ loi trên bàn đàm phán.
Trong khi đó, hội nghị sẽ được đăng cai bởi UAE – quốc gia mà Nhật Bản có quan hệ mật thiết. Tuy nhiên, mối quan hệ không dựa trên công nghệ sạch mà dựa trên dầu , hydro và amoniac .
Theo Kimiko Hirata , người sáng lập Mạng lưới Kiko và Tích hợp Khí hậu, Nhật Bản không quan tâm đến tính cấp bách của khí hậu.
Bắt đầu với COP28 và lần sửa đổi chính sách năng lượng vào năm 2024, vẫn còn thời gian để lãnh đạo chính phủ và doanh nghiệp của đất nước cứu vãn danh tiếng của mình và chứng minh điều ngược lại. Tuy nhiên, nếu thất bại một lần nữa, Nhật Bản không thể mong đợi gì khác ngoài COP27 khi được trao cái gọi là “ Giải thưởng Hóa thạch ”.
Mặc dù đất nước này dường như không hề bối rối trước những lời chỉ trích ngày càng tăng từ các thành viên G7 cũng như các nhóm môi trường và xã hội liên quan đến việc không hành động vì khí hậu, nhưng quốc gia này phải làm điều gì đó không chỉ để cứu lấy danh tiếng của mình mà còn cho cả hành tinh.

